Viêm mống mắt thể mi
- Bởi : Admin
- - Chuyên mục : Tin Tức Sức Khỏe
Viêm mống mắt thể mi
Mống mắt thể mi là phần phía trước của màng bồ đào do vậy bệnh này còn có chẩn đoán khác là viêm màng bồ đào trước.
– Bệnh hay tái phát từng đợt một, nếu không điều trị có thể dẫn tới tăng nhãn áp thứ phát và gây mù loà vĩnh viễn.
– Về căn nguyên có thể kể tới các yếu tố tại mắt như chấn thương tại mắt, các sang chấn phẫu thuật, tự kháng nguyên thể thuỷ tinh (do khuếch tán hoặc rách bao), nhãn viêm giao cảm; các yếu tố bệnh lý thuộc về các cơ quan lân cận: viêm giác mạc, củng mạc, răng, xoang, các nguyên nhân của toàn thân như nhiễm trùng (tổn thương lao, giang mai, bệnh do virus, bệnh do ký sinh trùng …), bệnh viêm (viêm cột sống dính khớp – viêm màng bồ đào, hội chứng Reiter, bệnh sarcoid, bệnh Behcet…) và các rối loạn chuyển hoá (diabete, goute). Trong những trường hợp này bệnh viêm màng bồ đào trước chỉ là triệu chứng của một bệnh toàn thân. Còn đến 80% các viêm mống mắt thể mi là không rõ nguyên nhân.
Triệu chứng
Bệnh nhân có biểu hiện:
– Đau rức mắt âm ỉ, nhẹ nhàng, đau rõ hơn về đêm.
– Thị lực giảm: Cảm giác như một màn sương mờ che trước mắt. Nhìn chung thị lực giảm ở mức vừa phải.
– Chảy nước mắt mức dộ vừa.
– Sợ ánh sáng: Chói mắt khi ra ngoài môi trường có ánh sáng cao, ở những mức độ khác nhau.
Những dấu hiệu này đều có thể mức độ nhẹ nhàng hơn so với các dấu hiệu tương ứng của viêm loét giác mạc.
– Ngoài ra bệnh nhân có thể kèm sốt, kém ăn, kém ngủ, ít dử mắt.
Thực thể khám thấy:
+ Cương tụ rìa: Cương tụ sâu ở vị trí kết mạc, có thể thấy rất rõ những mạch máu giãn to, màu tím đậm, ngoằn ngoèo.
+ Mống mắt: Sẫm màu, kém xốp, đồng tử co nhỏ, phản xạ áng sáng có thể giảm hoặc mất. Ở giai đoạn muộn đồng tử đôi khi bị méo mó do dính vào mặt trước thể thuỷ tinh.
+ Thuỷ dịch: Đục, khám trên sinh hiển vi sẽ thấy dấu hiệu Tyndall (+).
+ Thể thuỷ tinh: Có những chấm sắc tố mống mắt ở mặt trước, nhiều khi những chấm, đám sắc tố mống mắt này xếp dạng vòng tròn tương ứng với bờ đồng tử.
+ Mặt sau giác mạc: Có thể có tủa, đó là những chấm lắng đọng protein từ thuỷ dịch – sản phẩm của quá trình viêm.
+ Sờ phản ứng thể mi: Bệnh nhân bị đau (phản ứng dương tính).
Nếu bệnh nhân đến trong giai đoạn muộn, các triệu chứng cơ năng không còn rõ rệt nữa, hầu như chỉ còn là dấu hiệu mắt mờ. Các triệu chứng thực thể khi đó cũng khác nhiều so với giai đoạn trước:
+ Mống mắt: Teo, bạc màu, có thể xuất hiện hình ảnh núm quả cà chua do nghẽn đồng tử, thuỷ dịch ứ lại ở hậu phòng đẩy vồng mống mắt về phía giác mạc.
+ Đồng tử: Thu nhỏ, thường dính tít hoặc méo mó do dính vào mặt trước thể thuỷ tinh. Phản xạ với ánh sáng của đồng tử lúc này sẽ hạn chế do dính. Diện đồng tử có thể sẽ bị màng viêm che kín.
+ Thể thuỷ tinh, dịch kính: Có thể bị vẩn đục ở nhiều mức độ khác nhau. Do màng viêm cùng với thể thủy tinh bị đục che khuất, dấu hiệu đục dịch kính chỉ có thể phát hiện được phát hiện bằng siêu âm.
+ Nhãn áp: Tăng thứ phát bởi vì nghẽn đồng tử , nghẽn vùng bè hoặc có thể hạ do teo thể mi.
Điều trị
Điều trị theo căn nguyên: Cố gắng tìm ra căn nguyên bằng cách xét nghiệm công thức máu, máu lắng, chụp phổi, test chẩn đoán lao, giang mai hoặc những bệnh do ký sinh trùng, virus…, chụp kiểm tra các xoang, khám răng, khám các khớp…. Ngoài ra cần phối hợp với các chuyên khoa tương ứng để điều trị triệt để các bệnh này nếu có.
Nếu vẫn không tìm được nguyên nhân thì vẫn phải dùng kháng sinh điều trị bao vây bằng đường toàn thân và dùng phốí hợp ít nhất hai loại kháng sinh.
Chống dính:
Sử dụng thuốc Atropin
Chống viêm:
Dùng thuốc theo đường toàn thân và tại chỗ đảm bảo hiệu quả chống viêm
Tăng cường dinh dưỡng cho mắt, tăng sức đề kháng: Sử dụng Vitamin các loại A, B, C, D dùng đường toàn thân. Ngoài ra cho mắt được nghỉ ngơi bằng cách băng che hoặc dùng kính mát.
Điều trị các di chứng:
Tăng nhãn áp thứ phát, đục thể thuỷ tinh là các di chứng có thể gặp. Những trường hợp này mổ đơn thuần cho kết quả kém và rất hay tái phát vì vậy viêm mống mắt thể mi loại này cần được chẩn đoán chính xác và điều trị sớm./
Không có phản hồi